Hồi Ký Cao Xuân Huy
Một
Tôi và thằng bạn lang thang khắp các quán nhậu, quán bia ôm trong
thời gian thành phố đang xôn xao về chuyện mất Ban Mê Thuột. Vừa mới
xong vụ Phước Long thương khó, bây giờ lại đến Ban Mê Thuột “khó thương”.
Không biết lần này những nơi ăn chơi của trai thanh gái lịch Sài Gòn có
bị đóng cửa ba ngày như lần trước không? Nhưng cả chuyện mất Ban Mê
Thuột lẫn chuyện đóng cửa những nơi du hí chẳng ăn nhậu gì đến bọn tôi
cả. Cho dù tất cả những quán bia ôm bị đóng cửa, bọn tôi vẫn có thể lê
la những quán cóc lề đường. Hơn nữa, lúc này đã vào nửa cuối tháng lương
mà ngày vui chắc chắn sẽ còn rất dài nên chuyện ngồi quán cóc lại là
điều hợp lý và hợp tiền. Thành ra với bọn tôi, nhậu cái gì cũng là nhậu.
Chúng tôi cần nhậu và sau đó xuống xóm tìm chị em ta, thật giản dị và
dễ tính. Quán cóc và các xóm chị em ta bảo đảm là không bị ảnh hưởng một
tí gì về chuyện thành phố phải để tang cho một địa danh nào đó vừa mất.
Tôi cũng vậy. Phước Long mất; Ban Mê Thuột mất; Pleiku, Kontum đang
chuẩn bị mất tôi xem như “nơ pa”, bởi vì tôi sống và lớn lên ở Sài Gòn
nên tôi đã thừa hưởng trọn vẹn cái thói thản nhiên, cái tính phớt tỉnh
Ăng Lê hơn người Ăng Lê của dân Sài Gòn. Thành thử một địa danh nào đó
dù lớn dù nhỏ, vừa mất đi hay vừa chiếm lại được nếu không ăn nhậu gì
đến chuyện làm ăn của mình, chuyện mất mát người thân của mình hay ảnh
hưởng đến chuyện ăn chơi của mình thì dĩ nhiên không phải là chuyện của
mình. Tiếng súng ở ngoài tầm tai của mọi người mà. “Tôi vẫn sống, tôi
vẫn ăn và tôi vẫn thở…”.
Tôi đã trú đóng một thời gian ở Ban Mê Thuột, cũng có một ít kỷ niệm
lăng nhăng về tình cảm ở Ban Mê Thuột. Nhưng tôi không có tài sản, tôi
không có thân nhân đang ở hay đang đánh đấm ở Ban Mê Thuột, và những nơi
ăn chơi của tôi ở Sài Gòn không bị ảnh hưởng bởi chuyện mất Ban Mê
Thuột, nên một năm mười hai tháng, chỉ có mấy ngày là được ăn nhậu thoải
mái, không phải lo bất cứ chuyện gì, vậy thì tại sao tôi phải bận tâm
về những chuyện không phải của mình? Mất hay không mất Ban Mê Thuột thì
đã sao?
La cà ở các quán nhậu và sau đó xuống xóm đã là một chương trình bất
di bất dịch trong những lần phép ở Sài Gòn. Ðã có lần tôi viết thư cho
một người bạn kể về những lần phép và những ngày phép của tôi: “Ở Sài
Gòn, suốt ngày tao chỉ ngồi và nằm, ngồi với rượu và nằm với gái, vì cả
năm sau đó tao không còn được ngồi và nằm thoải mái nữa, và chưa chắc
tao đã có thêm được một lần phép kế tiếp. Lý do thật giản dị là mỗi buổi
sáng mở mắt ra mới biết là mình đã sống thêm được một ngày”.
Thời gian này tôi chỉ tiếc một điều là Rex vừa chiếu một xuất đặc biệt phim Exorcist
để lấy tiền giúp đồng bào chạy loạn; giá vé thật đắt nhưng đã hết nhẵn
từ chiều, kể cả vé chợ đen đắt gấp ba bốn lần giá vé chính thức. Tôi đến
trễ nên không mua được vé. Không hiểu cả năm nữa tôi mới được về, chắc
gì đã đúng vào dịp phim này được chiếu lại. Tôi tiếc không phải vì tôi
đã không được đóng góp chút đỉnh tiền theo kiểu trước mua vui sau làm
việc nghĩa để cứu giúp đồng bào mình, mà vì phim này được quảng cáo hấp
dẫn quá, tôi muốn được xem đã từ lâu rồi. Thôi thì lại nhậu.
Ðến ngày hết hạn trên giấy phép tôi ra trình diện hậu cứ ở Vũng Tàu
để gia hạn, vì tôi đã lên máy bay rời Huế chậm hơn ngày ghi trong giấy
phép. Ðường Sài Gòn – Vũng Tàu lúc này hơi mất an ninh nên những chuyến
liên lạc giữa hậu cứ tiểu đoàn với Bộ tư lệnh ở Sài Gòn thưa hơn trước.
Trong khi chờ đợi quyết định của tiểu đoàn trưởng ở hành quân, tôi la cà
ở Bãi Trước để tránh phải nghe chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu nhau
của những bà vợ sĩ quan ở khu gia binh của hậu cứ.
Ăn nhậu ở đây quá phí tiền nên không đợi tiểu đoàn trưởng gia hạn
giấy phép – tôi biết chắc chắn là tôi sẽ không được gia hạn – và cũng
không đợi để đi theo chuyến liên lạc, tôi tự động coi như mình đã hợp lệ
chuyện kéo dài ngày phép, tôi lên xe đò về Sài Gòn sau một chầu nhậu
say mèm với bọn đệ tử ở hậu cứ. Thủ hai quả lựu đạn trong túi quần cho
chắc ăn, nhưng vừa bước chân lên xe tôi đã ngủ như chết. Về đến Sài Gòn
tên lơ xe còn phải lay một hồi lâu tôi mới tỉnh.
Tôi lại liên miên sáng xỉn chiều say tối nằm quay với gái, mặc dầu đã
hết cả những ngày phép tự gia hạn. Nhưng nhằm nhò gì, tôi vẫn còn những
ngày phép tự ký nữa vì tôi là một thằng có biệt tài trễ phép. Tùy cơ
ứng biến, tôi có trăm phương nghìn kế để trễ phép mà không bị phạt. Tôi
đã từng đi hai mươi tám ngày trong khi phép chỉ có bốn ngày, ra đơn vị
cũng chỉ cười trừ. Lần đi phép này, tôi đã không định trễ, nhưng vì tôi
đã bị tiểu đoàn trưởng giữ lại đơn vị đến qua Tết ta trong khi giấy phép
của tôi đã được gửi về hậu trạm trước Noël, nên không lý do gì mà tôi
không trễ phép để bù lại sự thiệt thòi vô lý đó.
Suốt bảy năm lính tôi chỉ được ăn Tết lén ở Sài Gòn một lần vào đầu
năm 70 vì tôi tình nguyện đi học khóa Rừng Núi Sình Lầy ở Dục Mỹ để câu
giờ kiếm cái Tết. Ðể trả thù vì bị mất khơi khơi một cái Tết huy hoàng ở
Sài Gòn tôi tính phải trễ phép một tháng tức là phải ở Sài Gòn một
tháng rưỡi mới hả dạ. Tôi được phép thưởng đặc biệt mười lăm ngày, cho
nên đã hết những ngày phép tự gia hạn, tôi còn đến một tháng phép tự ký
nữa. Thiếu một thằng sĩ quan tại một đại đội lúc nào cũng có sẵn hai, ba
thằng sĩ quan dự bị thì đâu có nhằm nhò gì, mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn
vui mà.
Nhưng chợ đã không vui.
Chiều 15 tháng Ba, tôi gặp thiếu úy Bé Quân Cảnh vừa từ Bộ tư lệnh
hành quân về, cho biết tiểu đoàn tôi đang đụng lớn. Tiểu đoàn tôi nằm ở
cây số 23 về phía bắc trên quốc lộ 1 tính từ Huế. Khu vực trách nhiệm
của tiểu đoàn từ bờ bắc sông An Lỗ ra đến căn cứ Hòa Mỹ. Sát sông An Lỗ
là hai làng Cổ Bi và Hiền Sĩ, nơi đã xảy ra những trận đánh lớn sát quốc
lộ, và hiện nay vẫn đang bị đặc công và du kích quấy phá, nhưng chỉ là
quấy phá chứ không có gì đáng ngại. Sát căn cứ Hòa Mỹ là làng Ðồng Lâm,
một cái làng mà hầu như từ trưởng ấp trở xuống đều là Việt Cộng. Phía
đông là bãi cát mênh mông, có một ít dân Quảng Trị chạy loạn về tạm cư
lập thành một vài xóm nhỏ, tương đối an toàn. Còn về phía tây của vùng
trách nhiệm, nơi đối diện thực sự với Việt Cộng, nơi mặt đối mặt, có
chạm tuyến, có điểm đóng quân, nơi phía tây này có một trọng điểm là đồi
51. Từ đồi 51, chúng tôi có thể quan sát được những cuộc chuyển quân,
kiểm soát được những hoạt động tại các vị trí của Việt Cộng, và cũng từ
đồi 51, Việt Cộng có thể kiểm soát được các vị trí đóng quân của chúng
tôi, kể cả một đoạn quốc lộ 1. Việt Cộng có thể dễ dàng liên lạc với bọn
du kích nằm trong làng Ðồng Lâm, nằm ngay sát quốc lộ và ngay bên cạnh
căn cứ Hòa Mỹ.
Nếu tiểu đoàn tôi đụng lớn, chắc chắn là đụng tại đồi 51. Tính theo
vòng thay đổi điểm đóng quân trong tiểu đoàn thì đại đội tôi đang nằm ở
đồi 51.
Ban Mê Thuột mất không ăn nhậu gì đến tôi. Người ta đang bỏ Pleiku,
Kontum cũng chẳng nhằm nhò gì đến tôi. Nhưng đồi 51, một ngọn đồi nhỏ
không có tên, chúng tôi phải lấy cao độ của nó để đặt cho nó một cái tên
cho dễ gọi, nơi mà không một người Sài Gòn nào nghe nói đến, nơi mà dù
có mất nó cũng không đáng để cho người ta xê dịch cái kim hay đổi màu
bút chì mỡ trên bản đồ chiến sự trong những báo cáo hằng ngày, nơi mà
bản tin chiến sự hằng ngày của đài phát thanh quân đội cũng không buồn
đọc, nơi mà báo chí hằng ngày cũng coi như không đáng đăng bằng tin xe
cán chó, thì chính nó, cái đồi trọc lóc, nhỏ xíu và lùn tịt nằm ở cực
bắc Việt Nam Cộng Hòa, lại là điều rất quan trọng đối với tôi, đã làm
tôi bỏ ăn bỏ nhậu, đã làm tôi đang phè phỡn phải tìm mọi cách ra đến nơi
càng sớm càng tốt. Nó mạnh hơn những ngày phép trả thù của tôi, nó hạ
đo ván tất cả những lý do, những cái mánh tôi đang sắp xếp để qua mặt
Tiểu đoàn trưởng, vì đó là ngọn đồi mà đại đội tôi đang trấn đóng, nơi
mà anh em bè bạn, thầy trò của tôi không biết thằng sống thằng chết ra
sao.
Sáng 16 tháng Ba, tôi lên trình diện Bộ tư lệnh, phòng Tư cho biết ít
ra phải cả tuần nữa mới có được tên trong danh sách của chuyến bay ra
Ðà Nẵng – phi trường Phú Bài đã không sử dụng được vì nằm trong tầm pháo
của Việt Cộng. Lúc ăn điểm tâm tại Thị Nghè sáng ngày 17 tôi đã năn nỉ
thượng sĩ Tuấn, người phụ trách lập danh sách cho các chuyến bay của Sư
đoàn để được có tên trong chuyến bay ngày 18.
Chiều 17 tháng Ba, tôi chào gia đình để đi. Bà ngoại ôm tôi khóc. Mẹ
tôi không muốn tôi đi. Và cậu tôi – tuy là em của mẹ tôi nhưng ông mới
chính là bố tôi vì ông đã nuôi tôi từ ngày còn đỏ hỏn cho đến khi tôi
bước chân vào đời – khuyên tôi nên đào ngũ vì tình hình theo ông biết là
Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam. Ông nói:
“Tình hình lúc này không còn được như trước nữa đâu con ạ! Những
người Mỹ cậu quen đã lục tục về nước gần hết, chỉ còn ít người ở lại để
thu xếp công việc, cậu chắc là rồi họ cũng sẽ đi nay mai gì đó thôi. Tốt
nhất là con nên ở nhà để còn lo liệu cho gia đình. Nhà mình chỉ có cậu
với con là đàn ông thôi.”
Tôi tin là ông nói thật. Dĩ nhiên là ông không nói hết những điều ông
biết nhưng ông cho tôi một lời khuyên gói trọn tất cả những điều ông
cần nói. Sự quen biết của ông đủ để bảo đảm những điều ông nói nên tôi
tin là ông thực sự muốn tôi đào ngũ ở nhà để tránh phải húc đầu vào
những trận đánh vô ích. Nhưng tôi không nghe lời ông. Chắc chắn là Mỹ
không bỏ Việt Nam, bao nhiêu xương máu và của cải của Mỹ đã đổ xuống đây
rồi. Và hiện giờ Mỹ chỉ không tăng viện trợ chứ Mỹ đâu có cắt hết viện
trợ. Chúng tôi đã chẳng phải chiến đấu theo kiểu nhà nghèo từ sau ngày
ngưng bắn rồi ư. Còn một điều nữa là bạn tôi, anh Phát làm ở Hạ Viện,
cho biết là sẽ cắt đất hoặc ở An Lỗ hoặc ở Lăng Cô.
Hơn nữa, còn đồng đội tôi, còn đàn em tôi, còn danh dự tôi. Tôi sẽ ăn
nói thế nào với họ khi mà tôi, thằng Huy Râu của tiểu đoàn 4 đào ngũ
khi đơn vị đụng trận. Riêng chuyện trễ phép trong khi đại đội bị tấn
công ở đồi 51 đã không đủ nhục hay sao, không lẽ bây giờ tôi lại bỏ mặc
tụi nó, đào ngũ để lo cho thân mình vì chuyện khó tin chưa xảy ra.
Không, cậu tôi nói thật nhưng chỉ là điều ông căn cứ vào những tin tức
từ bạn bè, người quen của ông; còn tôi, tôi không thể nghe lời ông vì
tôi không muốn là một thằng hèn. Tôi nói với ông: “Sống chết sướng khổ
gì cũng có số hết cậu ạ. Cháu không muốn phải ngượng mỗi lần gặp lại bạn
bè, đồng đội.”
Tôi không phải là một người hùng, nhưng tôi cũng không phải là một
người hèn. Tôi chỉ là một người lính, lính của một binh chủng chuyên môn
đánh trận và chỉ nhận những người tình nguyện; tôi phải xứng đáng với
màu mũ tôi đang đội, màu áo tôi đang mặc, và hơi cá nhân một chút, tôi
phải xứng đáng với cặp lon tôi đang đeo… Nhưng tôi cũng không phải là
một người lính gương mẫu, đúc khuôn theo những điều được huấn luyện
trong quân trường, thi hành đúng 8 điều, 10 điều tâm niệm của mấy ông
Chiến Tranh Chính Trị đẻ ra mà chính mấy ông ấy lại không bao giờ thi
hành. Tôi là một thằng lính ba gai, cờ bạc, rượu chè, trai gái đủ cả
nhưng đánh giặc cũng rất tận tình. Chưa một ai, thượng cấp cũng như
thuộc cấp, phải than phiền về tôi trong những trận đánh.
Trưa 18 tháng Ba, ra đến Ðà Nẵng, tôi phải ngủ lại một đêm vì không
có xe ra Huế. Bộ tư lệnh hành quân đang chuyển từ Hương Ðiền Huế vào căn
cứ Non Nước Ðà Nẵng. Xe cộ đang dành ưu tiên để chuyển các tiểu đoàn
của Lữ đoàn 258 và 369 vào Ðà Nẵng thay cho các tiểu đoàn Dù rút về Sài
Gòn.
Ngoại trừ phi trường Ðà Nẵng rất đang chộn rộn về những đống quan tài
phủ cờ được đưa về Sài Gòn và những người dân Pleiku, Kontum được di
tản bằng máy bay đến, nhịp sống của những người dân trong thành phố hình
như không có gì thay đổi. Tôi và mấy người lính cùng tiểu đoàn lại lang
thang trong thành phố để tìm các quán nhậu và xóm chị em ta. Cà phê, xi
nê, vũ trường vẫn đông đảo tấp nập. Buổi tối chúng tôi còn kéo nhau đến
xem hội chợ tại một trường nữ trung học nhân dịp lễ kỷ niệm một nữ anh
hùng nào đó trong lịch sử mà tôi không nhớ. Người ta vẫn ăn diện, người
ta vẫn chơi bời, người ta vẫn vui vẻ thoải mái, đường xá vẫn rất nhộn
nhịp. Sinh hoạt bình thường này đã làm yên lòng những người dân vừa từ
Quảng Trị và Huế chạy vào.
Căn cứ chuyển vận vẫn tối tăm, hôi hám và bẩn thỉu như thuở nào, vẫn
nhộn nhịp và ồn ào vì chưa bao giờ được yên tĩnh. Những ông già mệt mỏi
và những người đàn bà xốc xếch đang vật vã khóc quanh những quan tài phủ
cờ được mang để ở đây không biết từ lúc nào, và cũng không biết đến bao
giờ mới được mang đi. Máy bay đã không còn chỗ cho những chiếc quan tài
này, và đường thủy cũng chỉ nhận mỗi ngày một số rất hạn chế.
Có cả xác của những người lính của tiểu đoàn tôi đã nằm đợi ở đây
bốn, năm ngày. Và thân nhân của họ ở đâu miệt lục tỉnh cũng đã ra đến,
xác của họ phải được mang đi gấp vì họ chết ít ra cũng đã hơn một tuần,
không hiểu thứ tự ưu tiên của căn cứ được sắp xếp thế nào mà xác họ vẫn
còn để đây. Và điều này cũng làm tôi thắc mắc là từ ngày Sư đoàn tôi ra
Quảng Trị, chúng tôi vẫn có những chuyến bay riêng để tiếp tế, tải
thương, tải xác… tại sao bây giờ chúng tôi lại phải tải xác qua hệ thống
chuyển vận của căn cứ này? Tôi được yêu cầu đứng ra can thiệp nhưng
chẳng đi đến đâu cả, chỉ nhận được những lời hứa, mà lời hứa thì giá trị
khỉ gì trong lúc này!
Chúng tôi lại kéo nhau ra cái quán nằm xế cổng căn cứ nhậu tiếp. Lại
nhậu, mặc dầu mấy thằng chỉ còn một cây thuốc Capstan đem theo để đổi
rượu. Tại quán nhậu, tôi gặp mấy người lính Lôi Hổ đóng tại Ðà Nẵng, họ
cho biết nửa khuya này họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Tôi nghĩ bụng quả
là chó má khi cố tình giết thêm một ít người nếu đúng như họ phải nhảy
vào Ban Mê Thuột. Hy vọng điều này không đúng với sự thật. Quyết định
thí quân hay quyết định sai lầm của một cấp chỉ huy có thể giết chết
hàng đơn vị lớn cũng không đáng trách, nhưng quyết định thảy một toán
lính vào một nơi mà hàng sư đoàn không chống giữ nổi, kéo theo cả một
quân đoàn phải rút chạy thì cái chết của họ phí quá. Ai là người chịu
trách nhiệm về những cái chết kỳ cục vô ích này? Lính cũng là người chứ
đâu phải đồ chơi cho những ông xếp lớn!
Trưa 19 tháng Ba, tôi ra đến Huế. Sinh hoạt ở đây rất vội vã, vội vã
chứ không ồn ào. Hình như người dân ở đây đã quá quen với những lần phải
bỏ nhà bỏ cửa chạy lấy người, và hình như những người chuyên gây ra
chuyện ồn ào đã bỏ chạy từ trước rồi. Những người nhà giàu đã vào Ðà
Nẵng hoặc Sài Gòn, những người trung lưu cũng đã vào Ðà Nẵng trú thân,
cái vội vã chỉ xảy ra ở những người buôn bán nhỏ, hoặc ở những người còn
cố nán lại ở thành phố để kiếm thêm chút “cháo”.
Tôi cũng vội vã không kém. Tôi phải mua ít đồ lặt vặt để đi gấp ra
tiểu đoàn trong buổi chiều để còn kịp về đến đại đội trước khi trời tối.
Tôi không thể đợi đến ngày hôm sau đi theo chuyến tiếp tế vì tiểu đoàn
trưởng ra lệnh tôi phải ra hành quân ngay trong ngày bằng mọi giá. Vả
lại, tôi cũng không thích nhìn thành phố Huế đang trên đà giãy chết này
nên ra hành quân cho êm chuyện.
Xuống xe tại sân tiểu đoàn, tôi gặp một thiếu tá rất lạ mặt đang đứng
với tiểu đoàn trưởng ở cửa lều ban Ba. Tôi trình diện. Ông thiếu tá lạ
hoắc đó tên là Thành cũng mang bảng tên màu đỏ của tiểu đoàn. Ông bắt
tay tôi và hỏi tiểu đoàn trưởng:
“Ông sĩ quan này đây hả?”
Nghe câu này, tôi biết chắc là hai người đã nói chuyện về tôi, và dĩ
nhiên không phải là nói tốt. Nhằm nhò gì! Tiểu đoàn trưởng không trả
lời, quay sang nói với tôi:
“Ðụ mẹ, ông về đại đội liền bây giờ.”
“Ðại đội tôi nằm đâu, thiếu tá?”
“Ðụ mẹ, không biết, ông đi cho khuất mắt tôi đi!”
Tiếng chửi thề của ông rất nhỏ nhưng tôi biết ông chửi thề vì thấy
môi ông mấp máy trước khi nói. Tôi chào và quay đi với một chút thích
thú, đâu phải thằng nào cũng làm cho “Hitler” chửi thề được, dù chỉ chửi
lẩm bẩm trong miệng. Ông đuổi tôi đi ngay lập tức, tức là tôi không
phải trả lời ông về lý do trễ phép, dĩ nhiên như vậy tôi đâu có bị phạt.
Ra đến Huế, hậu trạm đã cho tôi biết đại đội bị “banh ta lông” ở đồi 51
không phải là đại đội tôi, như vậy, cái gánh nặng trong người tôi đã
được trút bỏ, chỉ còn mỗi cái gánh nhè nhẹ là bị phạt này bây giờ cũng
được tháo bỏ nốt.
Trung úy Xuân đại đội trưởng đại đội chỉ huy cho tôi biết là thiếu tá
Thành sẽ thay thế thiếu tá Toàn làm tiểu đoàn trưởng, hẳn là hai ông đã
bàn giao cả cái ba gai của tôi. Ðại úy Phó đang tập sự làm trưởng ban
Ba để đi với thiếu tá Toàn qua tiểu đoàn 18, đại đội 3 của đại úy Hiếu
đã qua tiểu đoàn 14 trước, còn đại đội mới thành lập của đại úy Chiêu
nay trở thành đại đội 3 đã “banh” mất nửa đại đội tại đồi 51, thiếu úy
Sáng đại đội phó chết cùng với lính, trong số chết có thằng Hiếu, tên
cao bồi ruột của tôi.
Khi thành lập đại đội mới, tôi chắc mẩm là qua làm đại đội trưởng nên
đã đưa Hiếu qua trước để khi tôi qua khỏi bị rắc rối giấy tờ, nhưng
cuối cùng đại úy Chiêu làm đại đội trưởng và thiếu úy Sáng làm đại đội
phó, tôi gửi Sáng thằng Hiếu, đâu ngờ tôi đã gửi thằng Hiếu cho cái
chết.
Tôi cũng được biết đáng lẽ đại đội 4 tôi lên nằm đồi 51 theo đúng
vòng luân phiên nhưng vì thiếu đại đội phó -là tôi- nên đại đội 3 đã lên
thay. Như vậy, chuyến đi phép của tôi đã cứu tôi và cứu nửa đại đội của
tôi, nhưng chuyến đi phép của tôi đã làm chết oan Sáng và nửa đại đội
của Sáng. Ðồi 51 đã được đại đội 2 lấy lại sau đó một ngày, giải thoát
được một tiểu đội còn bám lại và lấy lại toàn bộ vũ khí bị mất, chỉ
thiếu có bộ phận máy nhắm của một khẩu súng cộng đồng, đồng thời tịch
thu được khá nhiều vũ khí. Xác lính thiếu mấy cái được kể như mất tích.
Xác thiếu úy Sáng cởi trần và không có thẻ bài, được nhận diện bằng cái
ống quần chật cố hữu và cái khóa thắt lưng đặc biệt, loại chỉ có khung
mà không có mặt.
Sáng và tôi ở hai đơn vị khác nhau, học cùng một khóa ở Rừng Cấm,
trung tâm huấn luyện của sư đoàn, cùng về đại đội một ngày, tuy mỗi
thằng chỉ huy một trung đội nhưng thường đi cặp với nhau trong những
trận ủi bãi. Hai thằng tôi còn là một cặp tri kỷ về nhậu. Sáng, tôi và
Thiện – đã đi đơn vị khác – được mệnh danh là ba cái nắp nhạo. Sáng đeo
lon chuẩn úy hơi lâu trên cổ – bốn năm – mà không vì một lý do nào hết,
là một trung đội trưởng kỳ cựu nhất tiểu đoàn – hơn ba năm – nên vừa lên
thiếu úy vài tháng đã được làm đại đội phó. Cuộc đời binh nghiệp của
Sáng khá lận đận mặc dầu là một người rất tôn trọng kỷ luật chứ không
thuộc loại mất dạy như tôi. Bây giờ lên lon, lên chức liên tục dù rằng
đã trễ, tưởng rằng sự nghiệp kaki sẽ khá hơn chút đỉnh, nào ngờ lương
thiếu úy chưa được lãnh, hồ sơ chức vụ đại đội phó chưa điều chỉnh xong
thì đời Sáng đã xong.
Khi địch tràn ngập vị trí phòng thủ ở đỉnh đồi, Sáng đã xin pháo binh
bắn thẳng vào đầu mình, không khóa, không mã, không ngụy, không ám danh
đàm thoại gì hết trên hệ thống truyền tin, tiếng Sáng ngắn gọn sau một
tiếng chửi thề: “Ðụ mẹ, nó đông quá, chụp lên đầu tao!” Pháo đã chụp lên
đỉnh đồi và hai chiếc máy bay cũng nhắm thẳng đỉnh đồi mà dội.
Cái chết thật anh hùng nhưng cái chết thật vô danh – đã đành -. Cái
sống anh hùng của cả một tiểu đội vẫn bám chặt, vẫn chiến đấu trên ngọn
đồi đã bị địch tràn ngập cho đến khi được giải cứu, đã chỉ được nhắc nhở
đến như một tin tức bình thường. Có vô tình quá không, mặc dù ai cũng
hiểu một vài điều khích lệ lúc này, một chút cử chỉ quan tâm lúc này còn
giá trị hơn một triệu hành động tuyên truyền chiến tranh chính trị. Tôi
thắc mắc không hiểu tiểu đội anh hùng này là người hùng riêng của tiểu
đoàn 4 hay họ cũng là anh hùng của cả binh chủng, của cả quân đội. Chắc
chỉ có những ông xếp lớn chết hoặc sống hơi “ngon” một chút mới đáng là
anh hùng, còn những thằng cỡ thiếu úy Sáng, cỡ tiểu đội cố thủ trên đồi
51 này thì là “cái mẹ gì”. Quân đội không thiếu những anh hùng cỡ là
“cái mẹ gì” mà thành ra thiếu anh hùng một cách trầm trọng. Tôi sực nhớ
lại một trong những người là chiến sĩ xuất sắc thuộc tiểu đoàn tôi về dự
đại hội chiến sĩ xuất sắc ở Sài Gòn năm 73 là người quanh năm suốt
tháng ở hậu cứ, hầu như suốt cuộc đời nhà binh chưa hề nghe một tiếng
súng bắn ngược. Hoan hô những người hùng.
Tôi hỏi trung úy Xuân:
“Ðại đội tôi nằm ở đâu ông?”
“Chỗ cũ, đến đường rầy quẹo trái.”
Tôi ra khỏi chỗ đóng quân của Ban chỉ huy tiểu đoàn, băng ngang quốc
lộ đi dọc lên phía bắc, qua chợ Ðông Hòa cũ, mặc dù hôm đi phép tôi còn
ngồi ở góc chợ uống bia chờ xe đò, nhưng bây giờ chưa đầy một tháng vắng
mặt, tôi đã phải gọi là cũ vì nó chỉ còn trơ ra những cái xạp cháy dở
và những tấm vách nằm ngổn ngang đầy những dấu đạn đại bác. Tôi quẹo
trái vào con đường đất đỏ dẫn vào phía núi.
Con đường nhỏ dẫn vào chân núi này rất quen thuộc với tôi nhưng bây
giờ lạ hẳn. Ngay từ căn nhà đầu tiên, quán nhậu của mẹ con cô giáo Hương
đã không còn nguyên vẹn, mái tôn đổ ụp xuống làm văng tung tóe những
tấm ván thùng đạn pháo binh được đóng làm vách, căn nhà bên cạnh, tiệm
hớt tóc miền quê cũng không còn cái cọc nào đứng nguyên. Suốt một dọc,
những căn nhà ven chợ này đều có chung hình dạng tan nát của cái chợ.
Càng vào sâu, nhà cửa càng tan hoang, dấu vết của những đợt pháo kích
khủng khiếp.
Qua hết khu “thị tứ” ven chợ, băng qua một vũng sình lớn, tôi đến khu
trong. Gọi là khu trong vì có đám sình ngăn cách với khu buôn bán bên
ngoài chứ thực ra chỉ có lèo tèo vài căn nhà lụp xụp để ở. Khu trong còn
nguyên vẹn. Tôi đến gần, một bà sư từ trong nhà đi ra, gọi tôi hỏi:
“Răng eng đi giờ ni mà đi có một miềng?”
Câu hỏi làm tôi sững người. Mặt trời đã lặn, tuy còn thấy rõ mặt
người nhưng chỉ là ánh sáng phản chiếu mà đường vào đến đại đội tôi còn
xa. Bây giờ tôi mới chợt để ý là khu này không còn người dân nào, vì nhà
cửa họ cháy hết đã đành, mà tình hình lúc này không còn phải là tình
hình của những ngày tôi chưa đi phép. Nhìn xuống khẩu súng, tôi nổi gai
ốc khắp người, súng tôi không có đạn.
Bằng động tác rất tự nhiên, tôi kê khẩu súng lên túi đạn bên hông –
dĩ nhiên túi đạn cũng rỗng – đứng nghiêng người để bà sư không thể nhìn
thấy chỗ lắp băng đạn của khẩu M-16 tôi cầm trên tay đang rỗng tuếch.
Tôi trấn tĩnh rất nhanh.
“Có lính ra đón tôi. Tại sao bà lại ở đây có một mình?”
“Tui tu hành mà eng. Eng đi cho cẩn thận chứ mấy hắn thường ra giờ ni nớ.”
Tôi bước đi, trong đầu không còn nghĩ đến Sáng, không còn nghĩ đến
Hiếu, không còn nghĩ đến hùng đến hèn gì nữa mà chỉ còn nghĩ đến mình.
Tôi đã quá cẩu thả để không hỏi rõ tình hình, để không lấy vài băng đạn
đem theo, để không gọi máy về đại đội gọi lính đi đón. Sự cẩu thả này
không thể chấp nhận được. Cái lỗi này chỉ cần một chút “xui” là không
bao giờ còn vấp phải lần thứ hai vì chắc chắn không còn lần thứ hai nào
nữa để mà vấp phải. Tôi bước đi, hấp tấp nhưng phải cố làm ra vẻ như
mình không hấp tấp, mắt đảo thật nhanh, láo liên như một thằng ăn cắp,
nhưng lại phải rất kín đáo nhìn lại phía sau, súng không có đạn mà lúc
nào cũng phải nắm lấy tay cầm của khẩu súng trong tư thế sẵn sàng bắn,
nhưng dĩ nhiên phải giấu phía gắn băng đạn quay vào người. Cứ trong tư
thế mâu thuẫn như vậy tôi đi. Trời không lạnh mà tôi run, trời không
nóng mà tôi toát mồ hôi. Bàn tay phải đã ướt nhẹp mà tôi không dám rời
tay cầm của khẩu súng để lau. Tôi phải giữ đúng tư thế sẵn sàng tác
chiến với hy vọng may ra đánh lừa được tên du kích nào lấp ló ở đâu đó
chăng. Tôi cố gạt phắt ý nghĩ là nếu thằng du kích nào đó có súng thì
cho dù tôi có ở tư thế “hiên ngang” như thế nào đi nữa thì nó vẫn có thể
“tỉa” tôi một cách dễ dàng. Nhưng với tư thế này của tôi, biết đâu nó
có thể nghi rằng đàng sau tôi đang còn một tốp lính nữa mà tôi chỉ là
thằng xích hầu, nếu chỉ có một mình chắc chắn nó sẽ không dám bắn. Một
cú tháu cáy cạn láng mà tôi chỉ có đôi bạt mặt.
Sự bình tĩnh gần như chỉ còn là phản ứng không phải của tôi, được
tăng lên theo sự rút ngắn của đoạn đường, nhưng lại giảm xuống theo sự
mất dần của ánh sáng. Lời nói dối bà sư khi nãy trở thành niềm hy vọng
to lớn tôi mong chờ: tôi chờ được gặp tốp lính đang trên đường đi đón.
Ðến đường rầy là ngã ba đường thì cũng lại là ngã ba đường của tôi,
“chỗ cũ” của đại đội tôi và “tới đường rầy quẹo trái” là hai địa điểm
ngược đường với nhau, quẹo trái thì không thể nào đến chỗ cũ, mà đi băng
qua đường rầy thì lại sai với lời chỉ đường. Tôi chửi thầm trung úy
Xuân đã chỉ đường cho tôi một cách bá láp, tôi chửi thầm tôi đã không
kịp nhận định cho rõ trước khi rời tiểu đoàn, tôi cũng chửi thầm luôn
đại đội trưởng đã biết tôi về đến mà không cho lính đi đón.
Tôi phân vân nhưng không được phép chần chừ, quyết định chậm phút nào
là kéo dài sự nguy hiểm thêm phút nấy. Tôi không dám lên chỗ cao để
nhìn cho xa, vì ánh sáng lúc này không đủ cho tôi nhìn xa và bóng tối
lại quá đủ cho thân hình tôi in rõ nét trên nền trời. Chỉ còn chừng ba
mươi thước là đến đúng chỗ rẽ, suy tính của tôi không được phép lâu hơn
ba mươi bước đôi của một người bước vội. Tôi không còn lựa chọn giữa hai
nơi “chỗ cũ” và “đến đường rầy quẹo trái” nữa, mà tôi chỉ còn được phép
chọn lựa lối đi theo địa thế. Nếu đi băng qua đường rầy tôi sẽ phải đi
băng qua mấy cái đồi trọc nằm thoai thoải, dễ chết quá, tôi sẽ là một
mục tiêu rất rõ cho những tay súng nhắm bắn từ sát mặt đất. Còn nếu quẹo
trái, tôi sẽ phải đi vào con đường mòn thật nhỏ, quanh co và nhiều bụi
rậm, cũng dễ chết lắm vì khu này đã không được “ổn” từ những ngày tôi
chưa đi phép, huống hồ bây giờ.
Tôi quyết định quẹo trái vì chưa chắc hiện giờ lối nào “ổn” hơn lối
nào. Nếu đi trên đồi, hai bên gặp nhau thì thằng chết chỉ là tôi, nghĩa
là kể cả trường hợp tôi thấy địch trước, vì tôi không có lấy một viên
đạn… làm thuốc. Còn nếu quẹo trái, ngộ nhỡ có đụng đầu nhau, kể cả
trường hợp tôi thấy địch sau, tôi vẫn còn có thể lủi vào bụi rậm hai bên
đường để mà “chẩu”.
Tôi đi rất cẩn thận, nghe ngóng và dọ dẫm ở những khúc quanh và chạy
thật nhanh ở những khúc thẳng. Ðến bụi rậm cuối cùng, tôi dừng lại quan
sát ngọn đồi trước mặt. Con đường lượn lên dốc thoai thoải vòng quanh
chân đồi, bên phải trống trơn, một vài bụi rậm nhỏ không đủ che giấu cho
tôi đi qua được chân đồi vì bên trái con đường, lên cao một chút trên
sườn đồi đang có lố nhố mấy người đứng ngồi nhấp nha nhấp nhô. Bằng mắt
với ánh sáng và khoảng cách lúc này tôi không thể phân biệt được họ là
ai, mình hay địch. Không phân biệt được bằng mắt thì phân biệt bằng tai
vậy: tôi cố gắng lắng nghe họ nói chuyện. Dĩ nhiên với khoảng cách này
thì chỉ tiếng được tiếng mất, nhưng tôi đâu cần nghe câu chuyện của họ,
mà tôi chỉ cần phân biệt cái giọng của họ, nếu giọng Nam thì thật “đã
đíu”, mọi chuyện sẽ êm xuôi tại đây, còn nếu giọng Bắc nhà quê hoặc
giọng trọ trẹ miền Trung thì… đằng sau quay, và chắc chắn là tôi sẽ có
một đêm ngủ vật vờ trong bụi để làm mồi cho lũ muỗi rừng và… đợi sáng
tính sau.
Tôi vận dụng tất cả mọi khả năng, dồn hết sức sống của tôi vào đôi
tai để chờ đợi, nhưng ngoài tiếng côn trùng và tiếng gió, tôi không nghe
được một tiếng nói nào của mấy người trên sườn đồi kia. Tuy nhiên, tôi
bình tĩnh thật lạ lùng, cái bình tĩnh của thằng lính khi ra trận đã biết
rõ mục tiêu, biết rõ từng vị trí của địch, đã nghe tiếng súng nổ, không
còn sự hồi hộp lo sợ của sự chờ đợi những viên đạn đầu tiên của địch
thay cho lệnh khai hỏa ghim vào thân thể mình trước khi kịp nghe tiếng
súng, không còn là chuyện may rủi trời kêu ai nấy dạ của những viên đạn
bắn sẻ nữa, mà là cái bình tĩnh của một sự việc đã được tính toán, đúng
thì sống mà sai thì… húp cháo rùa.
“Ðù má, lâu dzậy mảy?”
Tiếng nói đột ngột, không đủ lớn nhưng đủ lọt vào tai tôi. Xong rồi!
Tiếng chửi thề nghe sao dễ thương lạ. Tiếng chửi thề đã chấm dứt sự nguy
hiểm bao quanh tôi. Bọn này hẳn phải là lính đại đội tôi, đang gài mìn
tại tiền đồn cấp tiểu đội.
Tôi ung dung trở ra đường mòn, bằng điệu bộ rất thoải mái, súng vác
vai vừa đi vừa huýt gió “cờ bay cờ bay oai hùng…” để tránh sự bất ngờ có
thể gây ra ngộ nhận. Mấy người lính dừng tay nhìn tôi, và khi đi vòng
theo chân đồi không thấy ai lên tiếng hỏi thăm, chắc là tối quá tụi nó
không nhận ra mình, tôi lên tiếng:
“Ðứa nào đó bay?”
Không nghe tiếng trả lời, tôi hỏi tiếp:
“Ðại đội 4 phải không?”
“Ðụ mẹ, đi đâu về trễ vậy cha nội?”
Tôi bực mình, lính tráng thế này thì hỏng rồi, tôi xẵng giọng:
“Ðại đội nằm đâu?”
“Ủa, phép ra há mảy, đi tới là gặp liền. Mà đi lẹ lẹ nghe cha nội, coi chừng tụi nó gài “đồ chơi” rồi đó.”
“Có máy không, báo là tao về tới, khoan gài.”
“Không.”
Tiếng không cụt ngủn và có vẻ hơi xẵng. Tôi vừa bực mình vừa buồn
cười liên tưởng đến một chuyện cũ. Năm 72, tôi bị thương, trong khi nằm ở
tiểu đoàn đợi trực thăng tải thương, có một tay cũng bị thương và đợi
trực thăng như tôi xin tôi điếu thuốc và hỏi một câu làm quà:
“Ðụ mẹ, mày cũng bị thương hả?”
Tay lính này chắc chắn chưa tới hai mươi, mặt mũi còn non choẹt và
điệu bộ đầy vẻ dê cỏn buồn sừng. Tôi trả lời ậm ừ. Nó hỏi tiếp:
“Mày trung đội mấy?”
“Trung đội 2.”
“Tao cũng trung đội 2, mày tiểu đội mấy?”
“Tao ở PC trung đội.”
“Ðụ mẹ, mày tà lọt mà cũng bị thương hả?”
“Ờ, tao trung đội trưởng.”
Thằng bé bẽn lẽn:
“Ủa, ông thầy, em đâu có biết.”
Dĩ nhiên là nó không biết tôi, và cả tôi cũng không biết nó. Nó là
một thằng lính mới tò te, rất tò te vừa được đưa từ trung tâm huấn luyện
Rừng Cấm ra tiểu đoàn, ban Một tiểu đoàn phân phối cho đại đội, thường
vụ đại đội chia cho trung đội, trung đội phó nhận rồi đưa ra tiểu đội.
Trung đội đang “ủi bãi”, nó về đến trung đội buổi chiều, buổi tối tôi bị
thương, nó đâu thể biết trung đội trưởng là ai được.
Còn một chuyện nữa, cũng năm 72. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là trung tá
Quang. Trên hệ thống truyền tin ông là Quang Trung, nhưng trên cửa miệng
của những thằng lính chúng tôi thì ông là Quang Bóp Cổ. Nghe tên Quang
Bóp Cổ phải hiểu ngay ông là nhân vật như thế nào trong đơn vị. Tiểu
đoàn nằm ở thôn Bích La bên cạnh bờ sông Vĩnh Ðịnh, đại đội tôi nằm ôm
tiểu đoàn. Một hôm Việt Cộng chen vào giữa đại đội 2 và tiểu đoàn. Sáng
hôm sau chúng tôi đánh bật Việt Cộng ra ngoài đồng trống, thôi thì lính
tráng tha hồ bắn những cái bia di động. Quang Bóp Cổ cũng lấy M-79 ra
bắn loạn xà ngầu. Tụi tôi thấy Quang Bóp Cổ thằng nào cũng né, dạt ra
một nơi. Chuẩn úy Chiếm lúc đó đang đi OJT trong đại đội, thấy một thằng
mặc áo thun ba lỗ bắn M-79 dở ẹc, anh chàng đi tới vừa giựt khẩu súng
vừa chửi thề: “Ðụ mẹ, bắn như cái con cặc mà cũng đòi bắn, đưa đây tao!”
Ðó là những mẩu chuyện ngộ nhận, nhưng trường hợp tôi bây giờ lại
khác. Trong toán lính này ít nhất cũng phải có một thằng biết tôi; không
kể thời gian làm trung đội trưởng, tôi đã làm đại đội phó đại đội 4 này
ít ra cũng đã hơn hai năm rồi. Tại sao ngay cả tên chỉ huy cũng không
nhận ra tôi? Hay là…
Tôi chạy thật nhanh, lần này thì chạy thật chứ không còn giả vờ gì
nữa, để kịp về đến đại đội trước khi mìn và lựu đạn gài chặn lối đi. Tôi
chạy một mạch gần hai trăm thước tới chân đồi đại đội, thấy mấy người
lính đang từ trên đồi đi xuống, tôi đi ngược lên. Khi tới ngang họ, tất
cả dừng lại tránh lối cho tôi đi lên, họ nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, tôi
nhìn họ cũng rất ngạc nhiên, tất cả những khuôn mặt đều lạ. Tôi hỏi:
“Ðại 4 phải không?”
“Ừa, đại 4.”
Một người lính từ trong lều trên đồi bước ra hỏi vọng xuống:
“Gì đó bay?”
Tôi bỏ toán lính, đi tiếp lên đồi. Toán lính nhìn nhau rồi nhìn tôi,
rồi lại nhìn nhau. Khi tôi đi qua người lính gác, đi tới người lính đứng
trên đồi, họ mới tiếp tục đi xuống. Người lính đứng trên đồi hỏi vọng
xuống là ông thượng sĩ già. Tôi nhìn kỹ bảng tên, bảng tên màu hồng. Té
ra đây là đại đội 4 của tiểu đoàn 7. Rõ chán!
“Thượng sĩ cho tôi gặp đại đội trưởng.”
Người lính già trố mắt nhìn tôi, chắc chắn là không hiểu gì cả, bảo
tôi đứng đợi rồi chui vào cái lều lớn ở giữa sân. Ông ta không hiểu
nhưng tôi hiểu là mình đã đến lầm đơn vị, và việc của tôi ngay lúc này
là phải gặp đại đội trưởng ở đây để nhờ liên lạc với đại đội tôi cho
người đến đón. Nguy hiểm có thể đã hết, nhưng mệt thì còn nhiều. Ông
thượng sĩ trở ra, tay cầm đèn được thắp bằng pin của máy PRC-25; một
người nữa ra theo, tôi nhận ra người đi sau là Minh, bạn tôi.
“Ê Minh, cho tao gặp đại đội trưởng mày.”
Ông thượng sĩ lại trố mắt nhìn tôi thêm một lần nữa, ông ta không thể
hiểu tôi là cái giống gì Tôi không đeo lon. Tuy nhiên ông ta không nói
tiếng nào, lặng lẽ bỏ đi khi nghe Minh nói với tôi:
“Ðụ mẹ, mày làm cái con cặc gì mà tới đây giờ này, vô đây phê pháo cái đã, mọi chuyện tính sau.”
Tôi theo Minh vào lều nhưng sốt ruột, lại hỏi:
“Tao gặp đại đội trưởng mày đã, phê pháo mẹ gì.”
“Phê pháo đã mà, ổng đang bận.”
“Ủa, bộ mọi chuyện đại đội trưởng mày làm hết hả?”
“Ðâu có, đại đội phó làm chứ.”
“Vậy ổng bận cái gì?”
“Bận tiếp khách.”
“Mẹ kiếp, té ra mày là đại đội trưởng à?”
“Chứ còn thằng con cặc nào vô đây!”
Vừa uống cà phê tôi vừa kể cho Minh nghe chuyện vừa qua, Minh nhìn tôi cười:
“Ðụ mẹ, mật mày lớn mà mạng mày cũng lớn, lóng rày tụi nó ra hà rầm.”
“Lớn cái con củ cải, tao biết chó đâu đó, đến lúc biết đã ngồi cha nó trên lưng cọp rồi.”
Tôi nhờ Minh liên lạc với đại đội tôi, nhưng vì khác tiểu đoàn nên
không có tần số để liên lạc, tôi đành phải xin ít đạn và mấy quả lựu đạn
để tiếp tục… du lịch. Minh cho mấy người lính đi theo tôi. Về đến chỗ
cũ của đại đội, đại đội tôi không còn đóng ở đấy, thay vào đó là một
toán tiền đồn thuộc đại đội Trinh Sát của sư đoàn – Viễn Thám cũ. Tôi
cho lính của Minh về và nhờ một người lính Trinh Sát đưa tôi về gặp
trung đội trưởng của họ. Người trung đội trưởng này là một sĩ quan còn
rất trẻ mà tôi không quen nên anh ta nói chuyện với tôi một cách dè dặt.
Tôi phải moi tất cả giấy tờ có trong người như thẻ căn cước quân nhân,
chứng chỉ tại ngũ và cả tờ giấy phép có chữ ký của trung tướng Ngô Quang
Trưởng cho anh ta xem. Tôi chỉ nhờ anh ta mỗi một điều là báo cáo và
cho người dẫn tôi về gặp đại đội trưởng của anh ta. Lại muốn gặp đại đội
trưởng!
Tôi nghe rất rõ tiếng ông đại đội trưởng -tôi biết là đại úy Lực- phát ra từ ống liên hợp của máy truyền tin.
“Ðụ mẹ, không tin thằng nào hết, giấy tờ giả thiếu chó gì. Ông cho tôi biết nó người Bắc hay người Nam.”
Tức cười, lúc nãy tôi đã dùng cách phân biệt Bắc Nam để phán đoán ta
hay địch, bây giờ tôi lại bị người khác dùng cùng một cách để đánh giá
tôi là ai. Hỏng bét rồi, tôi là một thằng Bắc Kì trăm phần trăm, không
sai một ly ông cụ nào, từ giọng nói đến những tiếng tôi đang dùng đều là
Bắc Kì đặc.
“Ông này Bắc Kì nhưng trông cũng có vẻ lính mình.”
“Ông cho người mang thằng đó về đây cho tôi.”
Mang tôi đi tức là tôi bị tước súng và áp giải như một thằng tù binh.
Mẹ kiếp, thằng này chứ có phải thằng nào khác đâu, đâu có chuyện tước
súng tôi một cách dễ dàng như vậy được.
Bỗng nhiên tôi nổi giận:
“Này, đừng có làm cái trò sỉ nhục nhau như vậy chứ thiếu úy!”
Anh ta cho một người lính dẫn tôi về đại đội Trinh Sát.
Ðại úy Lực không tiếp tôi. Ông ta để tôi đứng ngoài sân với người thượng sĩ thường vụ, tiếng ông ta hỏi vọng ra từ trong lều:
“Anh ở đơn vị nào?”
“Ðại đội 4 tiểu đoàn 4.”
“Chức vụ gì?”
“Ðại đội phó.”
Tiếng ông ta dịu lại:
“Ðại đội trưởng anh là ai?”
“Tôi không phải là tù binh để phải đứng ngoài trời này khai lý lịch
vọng vào lều cho đại úy. Tôi chỉ nhờ đại úy liên lạc với đại đội tôi cho
lính đến đón tôi về.”
“Ðụ mẹ, liên lạc đâu có khó, nhưng tôi phải biết anh là ai chớ!”
“Ðại đội trưởng tôi là 369. Ðại úy chỉ cần nói là 520 đang ở chỗ đại úy.”
Chừng hai phút sau, ông ta nói vọng ra không phải với tôi mà với ông thượng sĩ.
“Ông cho dẫn người này ra chỗ toán của thằng…” (tên người này tôi không nhớ).
Thượng sĩ thường vụ đi gọi người. Lúc này đại úy Lực mới từ trong lều chui ra, ông ta tới bắt tay tôi:
“Thằng Gắt” – đại đội trưởng tôi – “cho người đi đón ông lâu rồi, tôi cho người dẫn ông tới đó.”
Tôi cám ơn rồi đi theo người lính dẫn đường. Toán lính đi đón đang
ngồi đợi tôi ở ngay chỗ đại đội tôi đóng cũ, vị trí của toán tiền đồn
Trinh Sát, nơi mà tôi và mấy người lính của Minh đã đến. Phải chi tụi nó
đến sớm hơn một chút hoặc phải chi tôi ngồi chơi với Minh lâu hơn một
chút thì đâu đến nỗi phải đi lòng vòng và phải khai lý lịch với bọn “vịt
tiềm” này.
Trung sĩ Khang cho tôi biết là họ phải băng ngang làng Ðồng Lâm ra
đón tôi ngoài quốc lộ, sợ tôi đi qua làng một mình chắc chắn sẽ bị “xé
phay” liền. Ðợi hoài không thấy, họ phải đi dọc quốc lộ về tiểu đoàn tìm
tôi, gặp trung úy Xuân nói tôi đi về chỗ đại đội đóng cũ, sau đó đại
đội trưởng cũng gọi máy bảo họ về chỗ này đợi tôi.
“Ðại đội nằm đâu, mày?”
“Sau làng Ðồng Lâm. Mấy hôm nay mình ăn pháo lia chia!”
“Có thằng nào bị gì không?”
“Có mỗi một trái lọt vô vị trí, banh một cái lều còn thì rớt cách
mình cả trăm thước. Có điều ban ngày mình không dám căng lều, sợ tụi nó
thấy.”
Bọn tôi đi tắt đường ruộng về đến đại đội, lính đổi gác cũng đã đến ca áp chót
Đọc tiếp Tháng Ba Gãy Súng: Chương Hai