Nguyễn Hưng Quốc
Ca
dao, ai cũng biết là hay. Tuy nhiên, có nhiều bài ca dao chúng ta đọc
đi đọc lại cả trăm lần, mơ hồ cảm nhận là chúng hay, mà chả hiểu chúng
hay ở chỗ nào cả. Chỉ đến một lúc nào đó...
Ví dụ bài ca dao rất quen thuộc này:
Mình nói dối ta mình hãy còn son,
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi xách nước tắm cho con mình.
Tôi thuộc bài ca dao này từ nhỏ. Nhưng chỉ gần đây, tôi
mới bắt đầu loé thấy một ít cái hay của nó. Trước hết, chúng ta biết
ngay bài ca dao này được làm theo thể lục bát. Bình thường, trong thơ
lục bát, câu sáu chữ nằm trên câu tám chữ, lục rồi mới đến bát. Tuy
nhiên, trong bài này có điểm lạ: là thơ lục bát, nhưng thay vì mở đầu
bằng một câu lục thì nó lại mở đầu bằng một câu bát phá thể. Hệ quả là
gì? Hệ quả là hơi thơ của câu thứ nhất dài hẳn ra. Dài và thiết tha vô
hạn: tấm lòng của anh thanh niên mở ra bao la với những nguyên âm ‘o’ và
nguyên âm ‘a’ rộng rãi và khép lại ở nguyên âm ‘i’ thầm thì trong chữ
‘mình’, một chữ được dùng để gọi người yêu, lặp lại đến hai lần ở câu
thứ nhất. Thành ra ở đây, ngay câu thứ nhất, đã có một nghịch lý: ý câu
thơ là tố cáo một sự dối trá (‘Mình nói dối ta...’) mà giọng thơ thì lại
rất mực ngọt ngào và ấm áp: anh thanh niên biết mình bị lừa mà lại sẵn
sàng chấp nhận bị lừa, sung sướng để chịu bị lừa.
Hay nhất trong bài ca dao vẫn là chữ ‘mình’. ‘Mình’ là
cách xưng hô đầy âu yếm để gọi người mình yêu. Chữ ‘mình’ ấy lại lặp đến
lại năm lần, mang hai ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: bốn lần đầu, ‘mình’
là em, chỉ người con gái, ngôi thứ hai số ít: ‘con mình’ là con của em,
là ‘your child’. Đến lần thứ năm, cũng là ‘mình’, nhưng ‘mình’ ở đây
lại là ta, là chúng ta, ngôi thứ nhất số nhiều, bao gồm cả người con
trai lẫn người con gái: ‘con mình’ ở câu cuối là ‘our child’. Người
thanh niên chấp nhận đứa con riêng của người yêu làm con của mình.
Bài thơ mở đầu bằng chữ ‘mình’, kết thức cũng bằng chữ
‘mình’. Từ chữ ‘mình’ đầu bài đến chữ ‘mình’ cuối bài, cách nhau chỉ có
28 từ mà thực ra là cả một quá trình chuyển hoá của mối quan hệ giữa
người con trai và người con gái, là lịch sử của một mối tình vừa ngang
trái lại vừa cảm động. Trước là hai, sau chỉ là một: người thanh niên
chấp nhận người tình ngay cả khi bị chị đánh lừa.
Cuối cùng, vì lặp đi lặp lại nhiều lần từ ‘mình’, chứa
đựng nhiều âm ‘m’ vốn là một phụ âm môi, nhẹ nhàng và ngọt ngào, bài ca
dao mang đầy giọng tâm tình. Như một lời thủ thỉ, thầm thì. Hiếm có bài
ca dao nào của Việt Nam mà có cái giọng ngọt và ấm đến như vậy.
Hay bài ca dao này, còn nổi tiếng và quen thuộc hơn nữa:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc;
Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay...
- Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ;
Chim vào lồng, biết thuở nào ra.
Bài ca dao này đã được khá nhiều người phân tích. Phần
lớn đều tập trung ở khía cạnh hình tượng và ngữ nghĩa. Những sự phân
tích ấy ít khi khác nhau cho nên tôi không muốn nhắc lại làm gì. Tôi chỉ
xin lưu ý đến khía cạnh ngữ âm, một khía cạnh ngờ như có khả năng tiết
lộ khá nhiều điều thú vị, đặc biệt là cảm xúc của người con gái.
Bài ca dao được cấu trúc bằng hai ngôn ngữ: ngôn ngữ của
người con trai và ngôn ngữ của người con gái. Bài ca dao giống như một
vở kịch với hai lời đối thoại. Nhưng lời nói của người con trai không
hẳn là một lời nói, có vẻ như là lời kể của ai đó, một nhân vật thứ ba, ở
ngoài. Tại sao? Không có gì khó hiểu cả: người con trai đang ở trong
một trạng thái bất ổn, phân thân, hồn một nơi mà thân xác một nơi. Nhiều
người ngạc nhiên tự hỏi: không hiểu anh loăng quăng, líu quíu trèo lên,
trèo xuống để làm gì vậy? Thật ra, có gì lạ đâu. Nhớ, trong một bài ca
dao khác, một người con gái cũng có cái dáng điệu loăng quăng líu quíu
như thế: “Khăn thương nhớ ai / Khăn rơi xuống đất / Khăn thương nhớ ai /
Khăn vắt lên vai...”. Sự loăng quăng líu quíu ấy chỉ là một cách để làm
nguôi ngoai một tâm trạng bời bời, đồng thời cũng là một dấu hiệu cho
thấy anh không còn tự chủ được mình nữa, anh bị thất lạc tâm hồn. Anh
bàng hoàng. Anh thảng thốt. Anh chấn động trước sự việc người anh yêu
thầm đi lấy chồng.
Ngắm nụ hoa tầm xuân xanh biếc, người con trai ngẩn ngơ:
“Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay.” Một câu hỏi quan trọng mà người
đọc thơ không thể không đặt ra: có quan hệ gì giữa nụ tầm xuân và việc
người con gái lấy chồng, từ đó, dẫn đến niềm tiếc nuối, xót xa kia? Ngỡ
như không có. Mà lại có. Ở cái vần ‘iếc’ trong chữ ‘biếc’ cuối một câu
thơ vốn có thật nhiều nguyên âm mở. Nó như một sự khép lại. Nó mảnh. Nó
sắc. Như một sợi khói bay lên, bay lên, xa hút: nó hình tượng hoá một sự
mất mát, một cái gì vuột khỏi tầm tay.
Người con gái chắc cũng yêu bạn mình. Chị đã từng chờ
đợi. Hoài công vì sự nhút nhát của anh. Chị vừa thông cảm lại vừa giận.
Chị đay nghiến: “ba đồng... một mớ....”. Sở dĩ đay nghiến là vì còn yêu,
còn thương. Nhưng dẫu sao thì cũng đã lỡ: chị đã có chồng. Người con
gái ý thức rất rõ điều đó, cho nên, giọng chị cứng lại:
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng...
Vần hai câu thơ rơi vào âm ‘ông’ sang sảng, ngân vang.
Mạnh, rất mạnh. Dứt khoát, rất dứt khoát. Nhưng tôi ngờ là chị chỉ cao
giọng để lừa dối chính chị. Bởi, nói chưa hết câu ấy, giọng chị đã trầm
xuống, thổn thức:
....Như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
‘Câu’, ‘đâu’, ‘gỡ’, ‘thuở’: những chữ kết thúc bằng
nguyên âm ‘u’ và ‘ơ’, nửa khép nửa nhẹ, bềnh bồng, rưng rưng, không
chừng là một tiếng khóc.
Một ví dụ khác:
Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó chạy rông trên bờ.
Từ trước đến nay, bài ca dao này thường chỉ được đọc
trong những lúc nói chuyện phiếm, như một bài ca dao trào lộng. Đọc cho
vui, đọc để cười chơi, vậy thôi. Trong ý nghĩa ấy, bài ca dao được nhìn
nhận như một cái gì khá tục và khá nhảm.
Tuy nhiên, theo tôi, không chừng đó là một bài ca dao hay.
Vấn đề là: nó hay ở chỗ nào?
Trước hết là nó bạo và nó mới. Nó không có một chút sáo
ngữ nào cả. Dĩ nhiên, nói thế, chúng ta cần thận trọng. Không phải cứ hễ
viết tục là thoát sáo. Từ trước đến nay, ở đâu cũng có những người
khoái viết tục và viết bạo. Hiện nay, người ta lại càng viết tục và viết
bạo. Nhưng chưa chắc đã hay. Dù sao, theo tôi, cái tục của câu ca dao
này quả là hay thực. Nó không phải chỉ bạo để bạo, chỉ mới vì mới mà còn
là một sự sáng tạo hầu vẽ nên một thế giới gần hiện thực hơn. Chúng ta
hãy nhớ lại xã hội Việt Nam ngày xưa. Đâu phải ai cũng như là Thuý Kiều
và Kim Trọng, cũng là “người quốc sắc, kẻ thiên tài”, là “trai anh hùng,
gái thuyền quyên” cả. Trong xã hội thời xưa, đặc biệt là ở nông thôn,
đại đa số các cặp tình nhân là những anh thợ cày và những chị đầy tớ.
Anh đi làm mướn, chị đi ở đợ. Anh giống như Chí Phèo, chị giống như Thị
Nở. Đời sống của họ cơ cực, tối tăm. Cho nên, không có gì lạ khi họ tự
ví
Em như cục cứt ...
Anh như con chó ...
Cái tục của ngôn ngữ, cái thô của hình tượng ở đây lại là
những cái thực và là một sự sáng tạo. Nó phá đổ những khuôn sáo cũ kỹ
và giả tạo trong văn chương bác học. Nó vứt bỏ những son phấn những mũ
mão đai hia để làm hiện hình những con người gần gũi với cuộc đời hằng
ngày.
Hơn nữa, điều đáng cảm động ở đây là cặp tình nhân tự
biết thân phận của người họ yêu và của chính họ chẳng ra gì. Em không ra
gì. Mà anh thì cũng chẳng ra gì. Thế nhưng họ vẫn cứ yêu nhau, thương
nhau. Chúng ta nhớ trong truyện ‘Chí Phèo’, Chí Phèo và Thị Nở cũng từng
có lúc yêu nhau như tất cả mọi cặp tình nhân khác trên đời này. Và trên
đời này, tất cả những con người bất hạnh khác, khi yêu nhau, thì cũng
yêu nhau như tất cả những con người bình thường hay may mắn khác yêu
nhau. Cách biểu hiện tình yêu có thể khác nhau nhưng những rung cảm
những những xao xuyến những quyến luyến những ngây ngất trong lòng thì
chắc chắn là không có gì khác nhau cả.
Ở giữa câu lục là hai từ bắt đầu bằng phụ âm ‘k’ (‘cục
cứt’) mạnh, gắt, như một nỗi đau uất. Ở giữa câu bát là hai từ bắt đầu
bằng phụ âm ‘ch’ (‘chó chạy’) mềm mại, ngân vang, như một nỗi buồn tênh.
Câu ca dao, như thế, không phải chỉ tả mối tình giữa hai người khốn khó
bất hạnh tự ví mình với những gì hèn mọn, thậm chí hèn hạ nhất trên mặt
đất. Điều đáng đau xót, toát lên từ câu ca dao này là ở chỗ, mặc dù họ
tự biết thân phận của mình, mặc dù họ hoàn toàn an phận, chấp nhận cái
số kiếp làm phân, làm chó, họ vẫn không được gần nhau. Em vẫn lênh đênh
giữa sông và anh vẫn chạy rông trên bờ. Anh vẫn không bắt được em, vẫn ở
từ xa mà nhìn em một cách thèm thuồng. Giữa hai người vẫn có một khoảng
cách vời vợi. Không cùng.
Bài ca dao, do đó, mặc dù có một số chữ có vẻ tục, có vẻ
sỗ sàng lại chứa đựng một ý nghĩa hết sức thâm trầm, thể hiện được đúng
số phận của hàng triệu triệu cặp thanh niên nam nữ nghèo khó, lam lũ và
bất hạnh trong cuộc đời, nhất là cuộc đời ngày xưa.
Còn một câu ca dao khác cũng rất đáng bàn. Đó là câu
Vân Tiên ngồi dưới gốc môn
Chờ cho trăng lặn bóp l... Nguyệt Nga
Xin nói ngay: tôi không có ý định khen đây là bài ca dao hay.
Không hay, nhưng nó không hẳn chỉ là một cách nói tục
tĩu, nhảm nhí, và chắc chắn không phải là những câu vần vè vô nghĩa như
lâu nay chúng ta vẫn thường tưởng.
Chỉ cần đặt câu hỏi: tại sao người ta lại không nói Kim
Trọng hay Từ Hải hay Sở Khanh hay Mã Giám Sinh ‘ngồi dưới gốc môn’? Trả
lời câu hỏi ấy, chúng ta sẽ thấy ngay tác giả của câu ca dao này chính
là những độc giả của Nguyễn Đình Chiểu. Thế nhưng, ở đây lại nảy ra một
câu hỏi khác: tại sao, trong truyện Lục Vân Tiên, người ta không chọn
nhân vật nào khác, như Bùi Kiệm, một nhân vật được Nguyễn Đình Chiểu mô
tả bằng những lời lẽ rất nặng nề, rất thích hợp với vai trò của kẻ ‘ngồi
dưới gốc môn’: “Còn thằng Bùi Kiệm máu dê / Ngồi chề bê mặt như sề thịt
trâu”? Tại sao?
Tại sao người ta lại chọn ngay chính Lục Vân Tiên, một
nhân vật được xem là nghiêm trang, nghiêm túc, thậm chí nghiêm khắc, có
thể xem như một khuôn mẫu về đạo đức, để bắt làm cái chuyện phàm phu tục
tử ấy? Tại sao người ta lại chọn cái nhân vật không dám nhìn cả phụ nữ
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra / Nàng là phận gái, ta là phận trai”, không
dám lần khân lâu bên phụ nữ “Vân Tiên ngó lại rằng: Ừ / Làm thơ cho kịp
chừ chừ chớ lâu” lại làm cái việc ‘công xúc tu sỉ’ ấy?
Tại sao? Chắc chắn là có lý do. Và lý do cũng không có gì
khó hiểu: Chúng ta dễ dàng thấy được câu ca dao trên là một cách phản
ứng chống lại thái độ đạo đức khắt khe, có phần giả tạo của Lục Vân
Tiên, và phần nào cũng là của Nguyễn Đình Chiểu. Chế diễu thái độ đạo
đức cứng nhắc ấy, dân chúng đã cho Lục Vân Tiên làm cái việc nhảm nhí
là ‘ngồi dưới gốc môn, chờ cho trăng lặn...’ Trong cách nhìn này, câu ca
dao trên có cùng trường nghĩa với một câu ca dao khác, từ lâu vẫn được
xem là có ‘lập trường tiến bộ’ và ‘đứng đắn’ hơn:
Ban ngày quan lớn như thần,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Nói cách khác, tôi nghĩ, chúng ta hoàn toàn có lý để xem
câu ‘Vân Tiên ngồi dưới gốc môn...’ như một cách đọc truyện Lục Vân
Tiên. Đó là một lời phê bình cuốn Lục Vân Tiên. Trong vô số những lời
phê bình truyện Lục Vân Tiên, không chừng cách phê bình này của dân gian
là một cách phê bình hay. Hay và sắc sảo. Nó nhắm vào một trong những
vấn đề trung tâm của tác phẩm là quan niệm đạo đức cũng như cách thức
xây dựng nhân vật của cụ Đồ Chiểu nói chung.
Cũng vậy, chúng ta có thể đọc những câu:
Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,
Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô.
Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,
Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra.
Vân Tiên cõng mẹ chạy ra...
như một sự phê phán quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình
Chiểu: ông một mực đề cao những chuẩn mực đạo đức cổ điển và cổ kính như
trung, hiếu, tiết, nghĩa với hy vọng là chúng sẽ giúp duy trì sự ổn
định trong xã hội, tuy nhiên, một là, xã hội Việt Nam vào nửa sau thế kỷ
19, trong sự cọ xát dữ dội với văn minh Tây phương và thế lực thực dân,
cứ ngày một rạn nứt, vô phương hàn gắn; hai là, bản thân những chuẩn
mực đạo đức tưởng đâu là chân lý vĩnh cửu ấy thật ra rất đáng ngờ, và
với sự lung lay của Nho học, càng ngày càng đáng ngờ thêm. Con thuyền
‘chở đạo’ của Nguyễn Đình Chiểu, do đó, không phải chỉ trôi trên một
dòng nước ngược mà còn, hơn nữa, trên thực tế, chỉ loay hoay mãi trong
một vũng nước tù, không có lối thoát, hết ‘đụng’ cái này thì ‘đụng’ cái
kia, cứ quanh quanh quẩn quẩn mãi trong sự tuyệt vọng và bế tắc. Nói
cách khác, đó là những lý tưởng ở đường cùng. Biện pháp dựa trên nguyên
tắc đạo đức mà Nguyễn Đình Chiểu đề xuất, hay đúng hơn, cổ vũ, đã không
giải được bài toán của thời đại.
Theo tôi, chỉ với cách hiểu như thế, chúng ta mới giải
thích được tại sao một nhân vật chính diện trong một tác phẩm nặng dụng
tâm giáo huấn của một tác giả được xem là tiêu biểu nhất của dòng văn
học giáo huấn lại biến thành - không phải một lần mà là nhiều lần, ít
nhất là hai lần như vừa nêu - một nhân vật hài trong nền văn học dân
gian.
Một ngày nào đó, nếu tôi đủ hứng thú và can đảm làm một
tuyển tập phê bình về Nguyễn Đình Chiểu, có khi tôi sẽ chọn in những câu
ca dao trên ngay ở trang đầu. Ở đâu đó, bên kia thế giới, đã xa lắm lắm
những lời dạy lẩm cẩm kiểu ‘trai thời trung hiếu làm đầu / gái thời
tiết hạnh làm câu trau mình’, đọc những lời phê bình thông minh và hóm
hỉnh ấy, không chừng cụ Đồ sẽ cả cười
Nguyễn Hưng Quốc
Đọc Nguyễn Hưng Quốc thêm tại trang www.Tienve.org